Từ sáng sớm của ngày hội, tiếng trống, tiếng chiêng, âm vang truyền lan núi rừng. Các bếp nhà sàn bập bùng lửa đỏ: đồ xôi, luộc gà, thái măng, có nhà mổ lợn bày cỗ. Rượu cần từng vò lớn, nhỏ được bê ra để chuẩn bị đãi khách. Đó là những công việc phần lớn thuộc về lớp trung niên và người già. Còn những chàng trai, cô gái thì áo quần, khăn váy chỉnh tề, gọi nhau í ới và cùng đổ ra đường dẫn đến những cánh rừng có nhiều hoa ban nở. Họ chọn những cành hoa đẹp nhất, vừa hé nụ đều nhất để tặng người yêu và bố mẹ. Theo quan niệm của người Thái, hoa ban không chỉ tượng trưng cho tình yêu, mà còn là biểu tượng của lòng hiếu thảo, biết ơn. 
 
Cũng trong ngày hội này, trên dòng sông Đà, sông Mã diễn ra các cuộc hát giao duyên của nam nữ trên thuyền. Các cô gái duyên dáng che ô ngồi ở mũi thuyền, bên cạnh những đóa hoa ban tươi thắm vừa mới hái, cất lên tiếng hát những bài dân ca mượt mà, giãi bày cảm xúc và tâm trạng riêng tư, trong khi các chàng trai vừa lái thuyền, vừa đánh đàn tính, thổi sáo.
 
Hội mở vào dịp hoa ban nở, tổ chức định kỳ hàng năm, nhưng quy mô to hay nhỏ tùy thuộc vào thời tiết có liên quan đến sự được, mất của mùa màng năm đó. Vào khoảng tháng Giêng, người Thái rất chú trọng đến tiếng sấm đầu năm. Theo quan niệm lâu đời của đồng bào nơi đây, tiếng sấm là dấu hiệu linh thiêng, là “lời phán quyết của vua trời” có liên quan đến cuộc sống của bản mường, của mùa màng năm đó.
 
Người Thái cho rằng hễ năm nào nghe tiếng sấm rền từ phía thượng nguồn sông Mã, sông Đà thì năm đó có đại hạn. Do đó, hội Xên bản, xên mường năm này chỉ tổ chức nhỏ và đơn sơ. Các cuộc vui chơi, đàn hát coi như bị xếp lại. Các ngả đường dẫn vào bản đều có buộc cành cây xanh - dấu hiệu “cấm người ngoài vào bản, kiêng người ngoài lên thang” trong một số ngày “kiêng kị”. Nhà nào nhà nấy đóng cửa im ỉm và có cài lá xanh. Không khí sinh hoạt của bản trong những ngày này chùng xuống, đượm vẻ lo âu, buồn tẻ.
 
Ngược lại, hễ nghe tiếng sấm đầu năm rền ở phía thượng nguồn sông thì mọi người đều phấn khởi vui tươi. Họ tin rằng năm đó sẽ có mưa thuận gió hòa, triển vọng mùa màng sẽ bội thu, thóc ngô đầy bồ đầy kho, mọi người khỏe mạnh, ít ốm đau. Trẻ già cùng rủ nhau ra suối tắm, giặt, gội đầu. Những đồ dùng nấu ăn hằng ngày cũng được đem ra cạo rửa. Và tất nhiên, hội Xên bản, xên mường của năm đó cũng được tổ chức lớn hơn, rộn dịp hơn. Cả bản cùng mổ trâu, mổ heo, ăn uống, vui chơi nhiều ngày liền.
Những ngày hội hoa Ban
Ngày thứ nhất, hội Xên bản, xên mường mở đầu bằng đám rước, tiếp theo là lễ hiến sinh cúng thần. Đám rước diễn ra từ nhà lớn của mường ra đình. Dẫn đầu đám rước là các chức sắc trong mường với trang phục đẹp may bằng the, lụa, có cờ, lọng, chiêng, trống, kèn, sáo, nhị đi kèm. Tiếp đến, các cụ già đội khăn đỏ, mặc áo tơ tằm vàng, quần chàm sẫm, thắt lưng xanh. Một số cụ mang theo cả cung nỏ. Một con trâu mộng to béo, được tắm rửa sạch sẽ được dắt theo, đôi sừng trâu bọc giấy màu lấp lánh, ở giữa trán và hai bên mông có dán giấy trắng cắt hình hoa ban to như miệng bát. Đi sau cùng là những chàng trai trong bản, mặc áo đỏ viền xanh, quần vàng, đội mũ chóp sơn dầu, chân quấn xà cạp đen tận đầu gối, đeo gươm hoặc giáo bên vai.
 
Tại đình, vị đảm già - thầy mo có uy tín, áo thụng xanh, mũ đuôi én đỏ, quần chàm, đi hài, bước ra trước hương án làm lễ cầu thần, sau đó lệnh cho dắt con trâu mộng ra làm lễ hiến sinh. Trâu được dắt đến nơi bãi rộng cạnh đình để mổ thịt. Từ lúc này, các trò vui của nam nữ thanh niên bắt đầu. Họ tổ chức múa xòe quanh nơi mổ trâu theo nhịp chiêng trống và cuộc vui chơi kéo dài cho đến khi pha xong thịt trâu mới chịu dừng.
 
Khi những mâm cỗ được dọn lên, thì chiêng trống cùng các nhạc cụ khác được chuyển về đình. Từng đôi nam nữ luân phiên hòa tấu cho tới lúc hạ cỗ. Đêm đến, nam nữ thanh niên vui chơi, ca hát cho đến khuya mới chia tay.
 
Ngày thứ hai là ngày thi bắn súng hỏa mai và cung nỏ. Mỗi người chơi phải bắn đủ hai mục tiêu tĩnh và động. Nếu thí sinh bắn trúng mục tiêu di động cả 3 phát thì được hưởng một mâm cỗ đầy, có xôi, thịt, gọi là pàn han do chính tay tạo mường chuẩn bị trước để tặng cho người đoạt giải trong cuộc thi tài. Già bản nhận khẩu súng hỏa mai từ tay nhà thiện xạ và lấy thêm một con dao sắc mới nguyên, chuôi bằng ngà voi, đặt chéo hai loại vũ khí này bày bên mâm cỗ nơi bàn thờ để cáo thần. Già bản đứng ra tuyên bố trước thần linh và các chức sắc, bô lão cùng dân chúng trong toàn mường, từ nay người được giải nhận trọng trách “Tuần Mường” (người trông coi việc an ninh trong mường).
 
Ngày thứ ba, là ngày hội tự do, sôi động nhất, có người tham gia đông đảo nhất. Ai thích trò chơi gì thì nhập cuộc vào các nhóm: ném còn, ca hát, thổi kèn, sáo, thi chim hót, thi trâu bò kéo… (tục lệ ở đây kiêng thi vật và cấm trâu bò húc nhau trong những ngày này).
 
Đối với nam nữ thanh niên, đêm hội cuối là đêm vui nhất, để lại nhiều kỷ niệm nhất. Dưới ánh trăng, màu trắng của hoa ban ánh lên trên nền xanh thẫm của rừng, tạo nên một vẻ đẹp thanh khiết. Giữa khung cảnh đầy thơ mộng ấy, cuộc thi hát giao duyên hòa cùng tiếng kèn, tiếng sáo giữa nam nữ diễn ra từ lúc trăng lên và kéo dài tới tận khuya. Họ tặng cho nhau những tấm phà (mặt váy thêu công phu), vòng đeo tay bằng bạc, trầu cau và những chai rượu nếp mang hương vị của rừng, của suối. Từ cuộc vui này, có bao nhiêu mối tình chớm nở và biết bao nhiêu đôi nên vợ nên chồng.
Hội Xên bản, xên mường mở vào mùa hoa ban nở là hội cầu mưa, cầu phúc của người Thái. Họ gửi gắm vào đó những ước vọng lớn lao về một cuộc sống bình yên, no ấm nơi bản mường, đồng thời cũng là dịp thi tài, vui chơi, trai gái tìm hiểu, tâm tình qua tiếng hát, tiếng đàn…